Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh, còn được gọi là Nhà hát lớn Thành phố Hồ Chí Minh là một ví dụ của kiến trúc Pháp tại Việt Nam. Được xây dựng vào năm 1897 bởi kiến trúc sư người Pháp Eugène Ferret như Opéra de Saigon, tòa nhà 800 chỗ ngồi đã được sử dụng như là nhà của hội Hạ viện của chế độ miền Nam Việt Nam sau năm 1956. Nhưng phải đến năm 1975 nó đã được một lần nữa được sử dụng như một nhà hát, và phục hồi trong năm 1995.
Sau cuộc xâm lược của Nam Kỳ, năm 1863 thực dân Pháp đã mời một công ty nhà hát Sài Gòn để thực hiện cho các quân đoàn của Pháp trong biệt thự của đô đốc Pháp tại Clock Square (Place de l'Horloge) (nay là góc đường Nguyễn Du và Đồng Khởi đường phố). Sau một thời gian ngắn, một nhà hát tạm thời đã được xây dựng tại các trang web của những gì bây giờ là khách sạn Caravelle. Năm 1898, việc xây dựng nhà hát mới bắt đầu trên các trang web của một người già, và nó đã được hoàn thành vào ngày 01 Tháng Một 1900.
Giữa Thế chiến I và Thế chiến II, tất cả các chi phí huy động và giải ngũ cũng như các chi phí khác cho các công ty nhà hát từ Pháp đến Sài Gòn đã được trả tiền bởi các chính quyền thành phố. Mặc dù thực tế rằng các nhà hát được lên kế hoạch như một địa điểm vui chơi giải trí cho tầng lớp trung lưu ngày càng tăng, khán giả của nó giảm như câu lạc bộ nhiều hơn và nhiều hơn nữa đêm và vũ trường bùng nổ trong thành phố. Trong thời gian này, các buổi biểu diễn đã được trình bày chỉ thỉnh thoảng, một số là các buổi hòa nhạc và những người khác các chương trình cai luong.
Sau những lời chỉ trích của mặt tiền của nhà hát và chi phí cao của các buổi biểu diễn tổ chức, chính quyền thành phố nhằm biến các rạp chiếu vào một phòng hòa nhạc (Salle de Concert), nhưng điều này không bao giờ được thực hiện.Thay vào đó, đồ trang trí, chạm khắc và các bức tượng đã được gỡ bỏ từ mặt tiền nhà hát vào năm 1943 để làm cho sân khấu trông trẻ trung hơn. Năm 1944, nhà hát đã bị hư hại bởi các cuộc tấn công trên không của Đồng Minh chống lại quân đội Nhật Hoàng, và nhà hát ngừng hoạt động. Khi Nhật đầu hàng quân Đồng minh, Pháp trở lại Nam Kỳ. Năm 1954, quân đội Pháp đầu hàng Việt Minh trong trận Điện Biên Phủ đã dẫn đến Hiệp định Geneva trong cùng một năm.Các nhà hát sau đó được sử dụng như một nơi trú ẩn tạm thời cho người dân Pháp đến từ miền Bắc Việt Nam.
Năm 1955, nhà hát được khôi phục như ghế của Hạ viện của Nhà nước Việt Nam, thì Việt Nam Cộng Hòa. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn vào năm 1975, tòa nhà được khôi phục chức năng ban đầu của nó như là một nhà hát. Năm 1998, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 300 ngày thành lập của Sài Gòn, chính quyền thành phố có mặt tiền nhà hát phục hồi.
Nhà hát Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh là một đối tác nhỏ của Nhà hát lớn Hà Nội, được xây dựng từ năm 1901 và 1911, và có hình dạng giống như Opéra Garnier ở Paris. Nó nợ đặc điểm cụ thể của mình cho công việc của kiến trúc sư Félix Olivier, trong khi xây dựng là dưới sự giám sát của các kiến trúc sư Ernest Guichard và Eugène Ferret vào năm 1900.
phong cách kiến trúc của nó bị ảnh hưởng bởi phong cách rực rỡ của Đệ Tam Cộng Hòa Pháp, với mặt tiền có hình dạng như Petit Palais được xây dựng trong cùng một năm tại Pháp. Ngôi nhà có một tầng chỗ ngồi chính cộng với hai mức ngồi ở trên, và có khả năng chứa 800 người. Các thiết kế của tất cả các bản khắc, trang trí, đồ nội thất và được vẽ bởi một họa sĩ người Pháp và gửi từ Pháp.
Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh |
Nhà hát vào tháng 8 năm 2013
|
Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh
|
Thông tin chung |
Tên khác |
Nhà hát Lớn |
Địa chỉ |
Số 7, công trường Lam Sơn, Bến Nghé, Quận 1 |
Tọa độ |
10°46′36″B 106°42′12″Đ |
Khánh thành |
1 tháng 1, 1900 |
Một buổi biểu diễn tại tiền sảnh phục vụ công chúng
Chi tiết
Nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh (hay thường được gọi ngắn gọn là Nhà hát Thành phố hoặc Nhà hát Lớn) là một nhà hát có mặt tiền hướng ra Công trường Lam Sơn và đường Đồng Khởi Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Nằm ở một vị trí thuận lợi tại trung tâm thành phố, nhà hát được xem là nhà hát trung tâm, đa năng chuyên tổ chức biểu diễn sân khấu nghệ thuật đồng thời cũng được sử dụng để tổ chức một số sự kiện lớn. Đây cũng là nhà hát thuộc loại lâu đời theo kiến trúc Tây Âu và được xem như một địa điểm tham quan của thành phố này.
Lịch sử
Nhà hát vào năm 1905
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, năm 1863, chính quyền Pháp đã mời một đoàn hát sang biểu diễn tại Sài Gòn để mua vui cho lính viễn chinh Pháp. Lúc đầu, đoàn biểu diễn tạm tại nhà gỗ của dinh Thủy sư đề đốc tại Công trường Đồng Hồ (Place de l'Horloge) (góc Nguyễn Du - Đồng Khởi hiện nay). Sau đó, một nhà hát tạm được lập ở vị trí Khách sạn Caravelle ngày nay. Năm 1898, Nhà hát lớn được khởi công ngay cạnh nhà hát cũ và đến ngày 1 tháng 1 năm 1900 thì khánh thành.
Giữa hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, việc đem gánh hát từ Pháp sang đây biểu diễn hoàn toàn do sự trợ cấp của chính quyền thành phố. Tuy có dự định nơi đây sẽ trở thành một khu trung tâm giải trí dành riêng cho những nhân vật sang trọng, nhưng Nhà hát Tây càng ngày càng mất khách, vì các tay ăn chơi bị các hộp đêm, các quán ăn có nhạc và khiêu vũ giúp vui thu hút hầu hết... Sau thời gian đầu hoạt động sôi nổi, nhà hát chỉ còn sinh hoạt cầm chừng với các buổi ca hát, hòa nhạc và cải lương. Do có nhiều chỉ trích về kiến trúc rườm rà và chi phí tổ chức tốn kém, nên chính quyền thành phố đã từng có ý định chuyển nhà hát thành nơi hòa nhạc (Salle de Concert). Tuy nhiên, ý định này đã không được thực hiện. Thay vào đó, năm 1943 phần trang trí, điêu khắc ở mặt tiền nhà hát bị xóa bỏ (tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn...) nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Tuy nhiên, vào năm 1944, nhà hát bị phi cơĐồng Minh oanh tạc, làm hư hại hại nặng, phải ngưng hoạt động.
Sau khi Pháp tái chiếm Đông Dương, do hoàn cảnh chiến tranh, nhà hát không được tu bổ nhiều. Năm 1954, nơi đây được sử dụng làm nơi ở tạm trú cho các thường dân Pháp từ miền Bắc di cư vào Nam theo Hiệp định Genève năm 1954. Năm 1955, nhà hát được tu bổ cải tạo nhưng lại được sử dụng với chức năng tòa Trụ sở Quốc hội (sau gọi là Hạ nghị viện) của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1975, Nhà hát được trả lại chức năng ban đầu là tổ chức biểu diện nghệ thuật. Năm 1998, nhân dịp 300 năm khai sinh Thành phố Sài Gòn, chính quyền thành phố đã cho tu bổ lớn với phương châm bảo tồn phong cách kiến trúc ban đầu, với một số trang trí, điêu khắc nổi ở mặt tiền nhà hát như tượng nữ thần nghệ thuật, các dây hoa... được phục chế.
Hội đồng nhân dân thành phố đã phê chuẩn một dự án tân trang nhà hát vào tháng 11 năm 2007, kinh phí trù liệu là 1,6 tỷ đồng. Trong chương trình này, những bộ phận kiến trúc trùng tu dược liệt kê như sau:
- Mái ngói với những vật liệu chế tạo đúng theo khuôn mẫu của thời đó (1900).
- Thay ghế ngồi bằng ghế đệm (giảm số ghế từ 559 xuống 500 chỗ ngồi).
- Thay gạch lát nền.
- Trùng tu các tượng phía trong nhà hát.
- Trùng tu các điêu khắc nổi trên tường và các tượng theo đúng mẫu ban đầu.
Dự án hoàn tất cuối năm 2009. Công ty tổ chức các buổi trình diễn văn nghệ đã nhận 160.000 € trợ cấp của thành phố Lyon (Pháp) để trang bị hệ thống chiếu sáng mỹ thuật về đêm.
Kiến trúc
Nhà hát lớn Sài Gòn là một đối trọng về mặt kiến trúc với Nhà hát lớn Hà Nội (cất năm 1911, kiến trúc theo mẫu Opéra Garnier tại Paris, 900 chỗ ngồi, kiến trúc sư Broger et Harloy). Nhà hát Sài Gòn giữ riêng nét đặc thù có một không hai. Tác giả của tòa kiến trúc này là các kiến trúc sư Félix Olivier, Ernest Guichard và Eugène Ferret xây dựng năm 1900 theo lối kiến trúc "flamboyant" của thời Đệ tam cộng hòa Pháp[2]. Cửa mặt tiền chịu ảnh hưởng nghệ thuật khá rõ nét của Petit Palais cất cùng năm tại Pháp. Thiết kế bên trong tân tiến với đầy đủ thiết bị cho âm thanh và ánh sáng. Ngoài tầng trệt còn 2 tầng lầu tổng cộng 1800 chỗ ngồi. Toàn bộ các mẫu trang trí, phù điêu mặt tiền và nội thất đều được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ 19 và gửi từ Pháp qua.
Tuy vậy, về phần trang trí ở mặt tiền nhà hát cũng có nhiều lời chỉ trích. Theo phong cách Đế quốc (sau được trang trí thêm theo phong cách Beaux Arts, rồi giản tiện hóa kiểu Art Deco), mặt tiền nhà hát được trang trí nhiều phù điêu và tượng đắp nổi (giống như Tòa Thị chính), nên bị chỉ trích là khá rườm rà và rối rắm. Vì vậy vào năm 1943, một số chi tiết trang trí này đã bị dỡ bỏ nhằm trẻ trung hóa phong cách kiến trúc. Vào năm 1998, nhân dịp kỷ niêm 300 thành lập Thành phố HCM, chính quyền đương thời phục hồi chức năng cũ là nhà hát thành phố cũng như đã cho phục hồi một số trang trí như tượng 2 nữ thần nghệ thuật, các dây hoa, hai cây đèn... trong đợt cải tạo và nâng cấp nhà hát. Tổng kinh phí trùng tu phục chế vào khoảng 25 tỷ đồng thời giá bấy giờ.
Những chuyện liên quan đến Vườn hoa Nhà hát
Tượng đài Thủy quân lục chiến
Nguyên thủy, vườn hoa trước Nhà hát không có tượng đài. Năm 1967, chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam đã cho xây dựng tượng đài Thủy quân lục chiến cao 9 mét, trong tư thế xung phong hướng vào trụ sở Hạ viện. Dư luận đương thời cho đó là một điềm gở khi quân đội "chĩa súng" vào Quốc hội.
Ngày 25 tháng 7 năm 1970, hai người Pháp phản chiến là André Marcel Menras và Jean Pierre Debris đã trèo lên tượng để phất cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và rải truyền đơn kêu gọi phản chiến. Cả hai đều bị chính quyền Sài Gòn bắt giam và bị Tòa án binh Sài Gòn kết tội "phá rối trị an" với mức án bốn năm tù giam đối với Jean Pierre Debris và ba năm tù giam cho André Marcel Menras. Cả hai bị giam ở khám Chí Hòa và được những người tù Cộng sản đặt tên Việt là Hồ Cương Quyết (André Marcel Menras) và Hồ Tất Thắng (Jean Pierre Debris). Sau đó cả hai đều bị đày ra Côn Đảo mãi đến đến cuối năm 1972 thì được trả tự do và trục xuất về Pháp. Khi ra tù, hai ông đã xuất bản chung một quyển sách có tựa đề "Thoát khỏi ngục tù Sài Gòn, chúng tôi vạch tội", tố cáo chế độ lao tù hà khắc của chế độ Sài Gòn.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, tượng đài bị giật đổ. Khu vườn hoa trở lại như ban đầu, tuy vẫn còn tồn tại cái bệ tượng cũ. Mãi đến tháng 12 năm 1997, nhân kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng Thành phố đã quyết định cho xây một đài phun nước và một tượng đài bằng đá hoa cương đỏ, kích thước 2,6 mét, bệ tượng bằng granit đen viền đỏ, cao 2,40 mét, có tên là "Tình mẫu tử".
Tượng đài "Tình mẫu tử"
Tác giả của bức tượng là ông Nguyễn Quốc Thắng - nguyên Phó giám đốc Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, thuyết minh về tác phẩm như sau: "bố cục theo hình khối tròn, hình ảnh hai mẹ con trìu mến, người mẹ bao giờ cũng che chở cho con...". Tuy nhiên, giữa năm 2005, trong một bài phóng sự điều tra, báo Lao động đã đặt nghi vấn về bản quyền khi dẫn chứng của bức tượng "Tình mẫu tử" của bà Dương Lệ Vân, hội viên Uỷ ban Điêu khắc - Hiệp hội Mỹ thuật công nghệ Trung Quốc, được đăng trong đặc san điêu khắc do Hiệp hội Mỹ thuật - công nghệ Trung Quốc xuất bản tháng 8 năm 1995.