1. Khái niệm cơ bản về trung tâm lịch sử của đô thị
Giữa những tên gọi mang ít nhiều màu sắc dị biệt của một thực thể chung nhất (thị tứ, thị trấn, thị xã, thành thị, thành phố...), thuật ngữ “đô thị” được sử dụng một mặt do tính quy ước, mặt khác do nó cô đúc được mối quan hệ biện chứng của hai yếu tố cộng sinh: “đô” và “thị”. Yếu tố “đô” là nơi tập trung các công trình hành chính, tôn giáo, chính trị, quân sự của nhà cầm quyền, và yếu tố “thị”, hay phố thị, là nơi cư trú của thị dân, và là nơi phục vụ các nhu cầu thiết yếu cho phần “đô”.
Đa số các đô thị lớn và cực lớn đều có chiều dài thời gian phát triển hàng trăm, thậm chí cả ngàn năm. Quá trình phát triển này để lại những dấu ấn rõ nét nhất trên khu vực trung tâm lịch sử. Dưới tác động của đô thị hoá hiện đại, trung tâm lịch sử dần dần được tích hợp thêm nhiều chức năng mới dẫn đến nhu cầu mở rộng không gian. Đối với những thành phố có quy mô lớn, quá trình mở rộng không gian này thường dẫn đến hiện tượng chuyển hóa đô thị từ mô hình đơn tâm sang đa tâm, với sự xuất hiện các trung tâm khu vực mới bên ngoài trung tâm lịch sử. Bản thân trung tâm lịch sử cũng thường được phát triển mở rộng thông qua quá trình cải tạo, chỉnh trang và hiện đại hoá để hoàn thiện vai trò là trung tâm chính của đô thị, khẳng định vị thế của nó trong tổng thể hệ thống các trung tâm của một thành phố lớn.
2. Khái niệm cơ bản về kiến trúc đô thị
Đô thị hàm chứa những khái niệm phức tạp về các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, và nghệ thuật.“Đô thị dù ở quy mô nào cũng đồng thời là một không gian vật thể, một không gian kinh tế và một không gian văn hoá xã hội. Không gian vật thể là phần “cứng” dùng để chứa đựng hai không gian sau.” (Trương Quang Thao). Dưới góc độ hình thái học đô thị, tác giả Nguyễn Quốc Thông xác định các yếu tố đặc trưng là đặc điểm cấu trúc đô thị, loại hình kiến trúc đô thị tiêu biểu, đặc điểm tổ chức không gian đô thị. Tác giả Kim Quảng Quân xác định các yếu tố sử dụng đất, bố trí hệ thống giao thông, bố cục hình thể không gian và các yếu tố vật chấ t khác. Dưới góc độ cảnh quan đô thị, lý thuyết cơ sở của Conzen đề xuất cách tiếp cận ba trục dựa trên các yếu tố đặc trưng: cấu trúc mặt bằng đô thị (đường phố, ô phố, lô đất), hình dáng kiến trúc công trình, đặc điểm sử dụng đất. Dưới góc độ bảo tồn di sản đô thị, các Hiến chương quốc tế xác định giá trị di sản dựa trên đặc điểm nội tại và mối quan hệ hữu cơ của các yếu tố: chức năng, hình thái đô thị, không gian công cộng, bối cảnh tự nhiên và nhân tạo, công trình kiến trúc.Trong luận án này, thuật ngữ kiến trúc đô thị được sử dụng một phần trên cơ sở kế thừa từ các nghiên cứu có giá trị khoa học cao như “Chương trình bảo tồn cảnh quan kiến trúc đô thị TPHCM” do Giáo sư Lê Quang Ninh chủ trì, và định nghĩa của Giáo sư Trương Quang Thao, kiến trúc đô thị là kiến trúc, với những quy mô đa dạng từ công trình đến quần thể, khu phố, đô thị và thậm chí cả một vùng lãnh thổ , theo quan niệm Urbanisme của trường phái Pháp-Nga.Ngoài ra, căn cứ theo phạm vi nghiên cứu, luận án giới hạn nội dung kiến trúc đô thị khu vực trung tâm hiện hữu TPHCM trong hai nhóm đối tượng cơ bản là: di sản kiến trúc (gồm di tích kiến trúc, các công trình kiến trúc có giá trị), và cảnh quan kiến trúc đô thị (gồm các khu vực “mảng”, “tuyến”, “cụm” đặc trưng, với sự tích hợp các thành phần công trình kiến trúc, không gian công cộng (quảng trường, công viên, không gian mở), chức năng và hình thái mạng lưới đường -phố).
3. Các nội dung liên quan đến bảo tồn di sản kiến trúc đô thị và phát triển tiếp nối
Khái niệm cơ bản về bảo tồn di tích Các khái niệm, nguyên tắc cơ bản về bảo tồn di tích đã được khẳng định tại Việt Nam trong nội dung Luật di sản văn hoá năm 2001, và được thế giới thừa nhận thông qua các công ước quốc tế, đặc biệt là “Hiến chương bảo tồn và trùng tu các di tích và di chỉ lịch sử” tại Venice năm 1964.
Di tích là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật liên quan đến một giai đoạn phát triển, một nền văn hoá của một dân tộc, một quốc gia hoặc của cả nhân loại.Bảo tồn di tích về bản chất là bảo quản lâu dài, không làm biến đổi những đặc điểm thể hiện nên chân giá trị lịch sử và văn hoá của nó. Yêu cầu bảo tồn tính nguyên gốc là mục tiêu hàng đầu, loại trừ tuyệt đối bất kỳ sự can thiệp nào có thể làm biến đổi tính xác thực đối với cấu trúc vật chất của công trình.
Khái niệm cơ bản về bảo tồn di sản đô thịTừ những năm 1970, các bổ sung quan trọng đã được tích hợp vào nội dung bảo tồn, xuất phát từ sự mở rộng của khái niệm di sản. Từ đây đã xuất hiện nhiều nỗ lực tìm kiếm những cách nhìn mang tính thời đại hơn cho quan niệm “giữ gìn nguyên gốc”. Mục tiêu là để bổ sung những quy định mới cho các đối tượng cụ thể mà nội dung khái quát của hiến chương Venice chưa đề cập đến một cách tr iệt để. Các đối tượng cụ thể đó gồm hai nhóm. Nhóm thứ nhất là giá trị văn hoá phi vật thể, nhóm thứ hai liên quan đến các giá trị di sản đô thị.
Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
Di sản đô thị là những cấu trúc vật thể và phi vật thể hình thành vào một giai đoạn hoặc trong toàn bộ tiến trình lịch sử phát triển của đô thị, có giá trị trên các phương diện về công trình kiến trúc, hình thái mặt bằng đô thị, tổ chức không gian công cộng, bối cảnh tự nhiên và nhân tạo, sự đa dạng của các chức năng công trình và các phương thức sinh hoạt đã được kế thừa và gạn lọc trong suốt tiến trình phát triển của đô thị.
Bảo tồn di sản đô thị về bản chất là xác lập phương thức dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển. Di sản đô thị thường là những cấu trúc sống động với sự tích tụ đầy đủ nhịp điệu sinh hoạt và phát triển của nó trong quá khứ và cả hiện tại, nên phương thức bảo tồn di sản đô thị phức tạp và đa dạng hơn so với bảo tồn di tích. Việc phối hợp nhiều cấp độ bảo tồn là cần thiết để duy trì cấu trúc vật chất của di sản ở một mặt, và đồng thời là cải tạo, tái sử dụng, thích ứng các giá trị vật thể và phi vật thể của nó vào dòng chảy của cuộc sống đô thị hiện đại ở một mặt khác.
Khái niệm cơ bản về phát triển tiếp nốiPhát triển tiếp nối là một khái niệm được đề cập nhiều trong thời gian gần đây, đặc biệt là tại Hội thảo Kiến trúc sư quốc tế Bắc Kinh năm 2002. Theo khái niệm phát triển tiếp nối, các đô thị lịch sử được nhận thức là những sản phẩm vật chất, xã hội, nhân văn được cô đúc trong tiến trình phát triển, với sự nối tiếp của nhiều thế hệ cư dân và nhiều giai đoạn lịch sử, tạo nên một thực thể kết nối quá khứ với hiện tại.
Thực trạng phát triển đô thị tại nhiều nơi trên thế giới trong những thập kỷ vừa qua đã phản ánh rằng, khi sự xung đột giữa cái cũ và cái mới thường kết thúc bởi sự vượt trội của cái mới, thì có nhiều đô thị đã tự mình đánh mất k ý ức lịch sử trong cơn lốc hiện đại hoá.
Bảo tồn trong phát triển tiếp nối là phương thức giảm thiểu những mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, giữa “chủ thể hoá” và “hiện đại hoá”. Cách ứng xử này giúp ngăn ngừa những rào cản phát triển ở một mặt, và cả các hiện tượng đào thải cái cũ một cách duy ý chí ở một mặt khác. Bảo tồn trong phát triển tiếp nối sẽ khơi thông, tiếp nối dòng chảy lịch sử của đô thị, củng cố tính chất hài hoà và liên tục lịch sử của cảnh quan kiến trúc đô thị.
Rất đơn giản 2dhReal là những người có đam mê về bất động sản, đó là nền tảng cho tư duy sáng tạo và chuyên môn của 2dhReal. Triết lý kinh doanh của 2dhReal là chất lượng không phải số lượng, đảm bảo tính toàn vẹn của thông tin là tối quan trọng để thành công